Lịch sử phát triển phù điêu:
Từ thời sơ khai của lịch sử loài người, con người đã phát hiện một cách ngẫu nhiên những hình tựa như những hoa văn rất đẹp. Họ đã cảm thụ, sử dụng và sáng tạo, phát triển thành một ngôn ngữ để diễn tả cái đẹp. Đầu tiên đơn giản chỉ hình ảnh của thiên nhiên như cỏ cây, hoa lá, chim thú, cá…được khắc vạch lại lên vách hang động nơi họ trú ngụ. Theo sự phát triển của xã hội loài người thì những đường nét trang trí được cách điệu, khái quát trừu tượng cao hơn, có giá trị về phương diện lịch sử và nghệ thuật như hoa văn trang trí trên trống đồng Ngọc Lũ ở Việt Nam ta, rồi về sau, loại hình trang trí này được tồn tại và phát triển mang đậm sắc thái dân tộc, thể hiện ở các công trình như lăng mộ, đình, chùa…mà chủ yếu là phù điêu với hai chất liệu chính là gỗ và đá.
Phù điêu: (Relief – Pháp, có nguồn gốc từ tiếng La tinh Relevo: làm nổi lên) phù điêu là loại điêu khắc được thể hiện trên mặt phẳng, có sự gắn kết khăng khít với mặt phẳng. Mặt phẳng đóng vai trò là nền tảng cơ bản và là phông nền của hình khối tạo hình trên nó. Với những điểm đặc thù của mình, phù điêu là một loại hình quan trọng của điêu khắc.
Tính cố hữu của phù điêu là triển khai bố cục trên mặt phẳng, nó có khả năng kiến tạo xa gần bằng các lớp không gian và tạo nên các ảo giác về không gian (không gian ảo). Phù điêu cho phép triển khai những bố cục phức tạp như bố cục có nhiều lớp nhân vật thậm chí thể hiện những công trình kiến trúc và tranh phong cảnh. Phù điêu không những thể hiện những bố cục ở tường, vòm mái, ở các chi tiết kiến trúc, mà còn được sáng tác như một tác phẩm độc lập để trưng bày.
Dựa trên mối quan hệ giữa hình khối và mặt phẳng nền người ta phân biệt ra phù điêu khoét lõm (khối âm) và phù điêu nổi lên ( khối dương).
Phù điêu trong điêu khắc giống như trang trí trong vẽ mỹ thuật. Vì thế khi bố cục đòi hỏi phải có sự nhịp nhàng về đường nét, phong phú về hình khối. Phải có mảng chính, mảng phụ, đồng thời chú ý các mảng đặc, mảng trống và cách diễn tả đường nét sao cho thật trang trí. Nếu bố cục phù điêu toàn những mảng đặc, không có mảng trống thì phù điêu trở nên tức, bí rất khó chịu. Do đó, các mảng trống, mảng đặc nói trên phải bố trí sao cho vừa vặn, cân đối, không bị trống hay bị lốm đốm, vụn vặt
Lý do nên lựa chọn tranh đắp xi măng trực tiếp
Đắp xi măng trực tiếp là một trong những hình thức phổ biến trong tạc tượng và được nhiều người lựa chọn vì những ưu điểm của việc đắp xi măng trực tiếp mang lại. Việc đắp xi măng trực tiếp có thể thực hiện được trên tất cả các thể loại tác phẩm trong tạc tượng như phù điêu, tượng tròn, các chi tiết hoa văn trang trí hay thậm chí là những bức tượng đài
Ưu điểm của việc đắp xi măng trực tiếp: được thực hiện ngay tại công trình mà không phải thông qua việc tạo mẫu bằng đất sét nhưng những hình thức tạc tượng khác việc này làm giảm chi phí về thời gian cho quá trình thi công, giảm chi phí vận chuyển và được thực hiện giám sát thường xuyên nên có thể tránh được những sai sót không cần thiết. Bên cạnh đó xi măng là một loại vật liệu phổ biến và có giá thành rẻ vì vậy việc đắp xi măng trực tiếp có thể giảm chi phí đáng kể về nguồn nguyên vật liệu. Trong quá trình thi công việc đắp xi măng trực tiếp không cần quá nhiều đến công cụ kĩ thuật hiện đại, chất lượng của sản phẩm chủ yếu dựa vào tay nghề của người tạc tượng. Việc này có thể giảm về mặt chi phí máy móc, công cụ thực hiện. Tóm lại việc lựa chọn hình thức đắp xi măng trực tiếp sẽ làm giảm chi phí thời gian thi công, giảm chi phí nguyên vật liệu, giảm chi phí công cụ thực hiện, thực hiện việc giám sát thường xuyên tránh sai sót trong quá trình thi công giữa nhà thầu và chủ đầu tư.
Hình thức đắp xi măng trực tiếp: nó là một biến thể của tranh tường nhưng được thể hiện nổi lên trên bề và được phân lớp rõ ràng tạo ra cảm giác thực tế hơn. Với hình thức này những bức tranh phù điêu luôn được lựa chọn trong tạc tượng trang trí ở những công trình kiến trúc khác nhau. Tranh phù điêu được đắp bằng xi măng có độ bền cao, có hình thức nổi bật hơn so với những bức tranh tường thuộc thể loại khác.
PHÙ ĐIÊU :
Phù điêu là hình thức sáng tác nghệ thuật bằng cách đắp nổi hoặc khoét lõm với chiều dài, rộng là thực còn phần nổi mang tính ước lệ về khối.
Tính cố hữu của phù điêu là triển khai bố cục trên mặt phẳng
Tính cố hữu của phù điêu là triển khai bố cục trên mặt phẳng, nó có khả năng kiến tạo xa gần bằng các lớp không gian và tạo nên các ảo giác về không gian (không gian ảo). Phù điêu cho phép triển khai những bố cục phức tạp như bố cục có nhiều lớp nhân vật thậm chí thể hiện những công trình kiến trúc và tranh phong cảnh.Phù điêu không những thể hiện những bố cục ở tường, vòm mái, ở các chi tiết kiến trúc, mà còn được sáng tác như một tác phẩm độc lập để trưng bày. Dựa trên mối quan hệ giữa hình khối và mặt phẳng nền người ta phân biệt ra phù điêu khoét lõm (khối âm) và phù điêu nổi lên ( khối dương).
Phù điêu là loại hình sáng tạo nghệ thuật thường được ứng dụng trong trang trí nội ngoại thất cũng như là những thành phần không thể thiếu trong kiến trúc.
Phù điêu: (Relief – Pháp, có nguồn gốc từ tiếng La tinh Relevo: làm nổi lên)Phù điêu là loại điêu khắc được thể hiện trên mặt phẳng, có sự gắn kết khăng khít với mặt phẳng. Mặt phẳng đóng vai trò là nền tảng cơ bản và là phông nền của hình khối tạo hình trên nó. Với những điểm đặc thù của mình, phù điêu là một loại hình quan trọng của điêu khắc.
Tính cố hữu của phù điêu là triển khai bố cục trên mặt phẳng, nó có khả năng kiến tạo xa gần bằng các lớp không gian và tạo nên các ảo giác về không gian (không gian ảo). Phù điêu cho phép triển khai những bố cục phức tạp như bố cục có nhiều lớp nhân vật thậm chí thể hiện những công trình kiến trúc và tranh phong cảnh.Phù điêu không những thể hiện những bố cục ở tường, vòm mái, ở các chi tiết kiến trúc, mà còn được sáng tác như một tác phẩm độc lập để trưng bày. Dựa trên mối quan hệ giữa hình khối và mặt phẳng nền người ta phân biệt ra phù điêu khoét lõm (khối âm) và phù điêu nổi lên ( khối dương).